Thứ Sáu, 24 tháng 9, 2010

Bức tranh kinh tế hộ nông dân hiên nay và một số vấn đề đặt ra

[26 - May - 2010 ::: hoalily]

Bức tranh kinh tế hộ nông dân hiên nay và một số vấn đề đặt raMột động thái tích cực rất đáng được lưu ý của kinh tế hộ nông dân là sự xuất hiện ngày càng nhiều các hộ bứt phá khỏi tình trạng tự cung, tự cấp vươn lên sản xuất hàng hóa, trong đó phương thức trang trại gia đình phát triển mạnh và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.


[http://agriviet.com]

1 - Đổi mới vị trí, vai trò của kinh tế hộ
Trong thời kỳ chiến tranh, hộ gia đình Việt Nam vừa cung cấp nguồn nhân lực, vừa là nguồn của cải vật chất (chưa nói tới tinh thần) cho cuộc chiến, đồng thời lại là nơi sản xuất vật chất để bảo đảm cuộc sống không những cho gia đình (chỉ với 5% quỹ đất canh tác được chia cho các hộ gia đình làm kinh tế vườn theo lối tự túc, tự cấp), mà còn đóng vai trò là hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam (trên cơ sở phát triển hợp tác xã theo kiểu cũ).
Vai trò của kinh tế hộ có nhiều thay đổi cả về phương thức quản lý lẫn lao động sản xuất, nhất là kể từ khi phong trào hợp tác xã mất dần động lực phát triển. Mốc quan trọng của sự thay đổi đó là sự ra đời của Chỉ thị 100, ngày 31-1-1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã. Tiếp theo đó, Nghị quyết 10, ngày 5-4-1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý nông nghiệp đã tạo cơ sở quan trọng để kinh tế hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp. Ngoài ra, đối với khu vực nông, lâm trường, nhờ có Nghị định số 12/NĐ-CP, ngày 3-2-1993 về sắp xếp tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước, các nông, lâm trường đã từng bước tách chức năng quản lý nhà nước đối với quản lý sản xuất, kinh doanh, các gia đình nông, lâm trường viên cũng được nhận đất khoán và hoạt động dưới hình thức kinh tế hộ. Tuy những đặc điểm truyền thống của kinh tế hộ vẫn không thay đổi, nhưng việc được giao quyền sử dụng đất lâu dài đã làm cho hộ gia đình trở thành đơn vị sản xuất, kinh doanh tự chủ, tự quản. Động lực mới cho sự phát triển kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn đã xuất hiện.
2 - Những kết quả tích cực bước đầu
Chủ trương, chính sách về giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho kinh tế hộ (đất nông nghiệp 20 năm, đất lâm nghiệp 50 năm) đã nhanh chóng đi vào cuộc sống của hàng triệu hộ nông dân. Và mặc dầu phong trào hợp tác xã không còn phát huy tính tích cực như xưa, nhưng diện mạo của kinh tế hộ nông dân Việt Nam đã thay đổi một cách cơ bản, nhất là ngày càng có nhiều đóng góp cho việc giải phóng sức sản xuất, nâng cao sản lượng nông nghiệp, mở mang ngành nghề mới, nâng cao thu nhập. Theo số liệu điều tra, trên 74,5% số hộ đã có từ 2 - 4 loại hình hoạt động sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập(1).

Cơ cấu hộ nông dân theo ngành nghề đang chuyển dịch theo hướng tăng dần số lượng và tỷ trọng nhóm các hộ tham gia sản xuất phi nông nghiệp, như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; số hộ làm nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 80,9% năm 2001 xuống còn 70,9% năm 2006. Các nghiên cứu đều cho thấy, giai đoạn 2001 - 2006 tốc độ chuyển dịch ấy đã diễn ra nhanh hơn trước. Nếu thời gian này GDP nông nghiệp đóng góp 20,23% vào cơ cấu kinh tế, nhưng là nền tảng của sự ổn định chính trị - xã hội vì chúng ta có tới trên 70% dân số sống tại nông thôn, thì trong số đó, đã có tới 40% dân số nông thôn có nguồn thu từ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Đây là một động thái tích cực.
Trong bản thân lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, số hộ sản xuất thuần túy nông nghiệp giảm dần, trong lúc số hộ tham gia sản xuất lâm nghiệp, thủy sản tăng lên. Tuy vậy, tính đến năm 2006, số lượng và tỷ trọng các hộ trong lĩnh vực thủy sản (chiếm 6,2%), lâm nghiệp (chiếm 0,3%) vẫn bị đánh giá là còn quá thấp, chưa tương xứng với tiềm năng thực tế.
Trong bản thân kinh tế hộ trang trại cũng có sự phát triển về chất, xuất hiện nhiều nhu cầu đầu tư vốn lớn, thuê đất canh tác và lao động thường xuyên hoặc theo thời vụ, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây, con theo hướng đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu thị trường. Chẳng hạn, trang trại chăn nuôi tăng rất nhanh, bên cạnh số trang trại sản xuất cây hàng năm và cây lâu năm cũng có sự phát triển về số lượng và chất lượng. Lượng hàng hóa nông sản của các trang trại đang ngày càng có vị trí trên thương trường. Một số các trang trại lớn đã bắt đầu phát triển thương hiệu, mở rộng các quan hệ làm ăn với các công ty lớn trong chế biến, thu mua và xuất khẩu.
Khi nhắc tới những thành tựu chung của kinh tế đất nước như giữ được vị thứ thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo (tính đến năm 2007), đứng đầu về xuất khẩu cà phê rô-bu-sta và hạt tiêu, một trong 10 nước hàng đầu về thủy sản..., thì phải nói, kinh tế hộ nông nghiệp trong nông thôn đã đóng vai trò chính trong việc tạo ra lượng hàng hóa lớn để phục vụ xuất khẩu. Trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng, đã có 5 mặt hàng đã đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD. Đó là thủy sản (3,8 tỉ USD), gỗ (2,4 tỉ USD), cà phê (1,86 tỉ USD), gạo (1,46 tỉ USD), cao su (1,4 tỉ USD).
3 - Khó khăn và thách thức trong thời gian tới
- Khó khăn và thách thức lớn đối với nông dân nước ta nói chung và kinh tế hộ nói riêng trong tiến trình hội nhập ngày một sâu vào kinh tế thế giới là chênh lệch lớn về năng suất lao động giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Đây là một trong số các nguyên nhân chính đang làm tăng thêm khoảng cách cả thu nhập lẫn mức chi tiêu giữa nông thôn và thành thị... Thêm vào đó, tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn tuy đã giảm mạnh, tới hơn một nửa trong khoảng thời gian 10 năm, năm 1993 - 2004, từ 66,4% xuống còn 25%. Hai năm gần đây, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đã giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007, vượt kế hoạch đề ra (16%). Nhưng trong nông thôn, cá biệt một số tỉnh miền núi, tại những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người, số hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ trọng cao: ở Lai Châu hiện nay là 55,32%; Điện Biên 40,77%; Hà Giang 39,44% và Bắc Kạn 37,8%. Dù khu vực nông thôn chiếm tới 90% số hộ thuộc diện nghèo của cả nước, nhưng tốc độ giảm nghèo ở nông thôn vẫn chậm hơn thành thị tới 20%. Tính bền vững trong các trường hợp thoát đói nghèo trong nông nghiệp, nông thôn không chắc chắn, do thiên tai, dịch bệnh, ốm đau... Điểm xuất phát thấp, tốc độ phát triển chậm, rủi ro lớn, thì khoảng cách khó có thể rút ngắn nếu không có những giải pháp mang tính đột phá.
Nếu chia toàn bộ dân số ra 5 nhóm bằng nhau về số người và theo các mức thu nhập từ thấp đến cao để so sánh chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% dân số giàu nhất với nhóm 20% dân số có mức thu nhập thấp nhất, thì nếu năm 1994, chênh lệch giữa nhóm giàu và nghèo là 6,50 lần, đến năm 2006 đã tăng lên 8,34 lần. Nhưng nếu nhóm dân số càng nhỏ lại, 10%, hay 5%, thì sự chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu và nhóm nghèo lại càng tăng lên đáng kinh ngạc. Theo một cách suy luận khác, chênh lệch giàu nghèo là rất lớn khi đang tồn tại nghịch lý ở Việt Nam, rằng thu nhập GDP đầu người còn rất thấp, nhưng giá nhà, đất lại cao, ngang với cả những nước có thu nhập GDP cao gấp hàng chục lần.

Người nông dân bị thu hồi đất cho công nghiệp hóa, hay đô thị hóa cũng rơi vào tình trạng tư liệu sản xuất bị mất hoặc giảm đi, trong lúc chưa chuẩn bị kịp các điều kiện để chuyển đổi nghề nghiệp. Phần đông nông dân có tiền (tiền đền bù do bị thu hồi đất) cũng khó tìm phương án nào cho hiệu quả để sử dụng cho sản xuất, kinh doanh làm cho nó sinh sôi nảy nở.

- Hộ nông dân thường rất dễ bị tổn thương trước sự chi phối khắc nghiệt của quy luật thị trường. Cơ hội kiếm tiền đến với người có vốn, có điều kiện về thông tin, và kể cả điểm xuất phát cao, sẽ nhiều hơn rất đáng kể so với các đối tượng khác, nhất là người nghèo. Về nguyên lý, thị trường dường như mang lại cơ hội cho tất cả mọi người, nhưng không phải mọi người đều có đủ khả năng như nhau để tận dụng cơ hội đó. Người nắm thông tin, người nhiều vốn, người lanh lợi và phải có chút "tinh quái" mới tận dụng cơ hội tốt hơn và do đó giàu lên nhanh hơn. Không ít người lợi dụng quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước những năm gần đây nắm giữ nhiều cổ phiếu; hay những người biết trước thông tin về quy hoạch nên đầu cơ được những khu đất đắc địa..., từ đó càng có điều kiện thu vén những nguồn lợi từ các cơ hội tốt, lại càng có điều kiện tích lũy làm giàu - giàu sẽ dễ giàu thêm hơn, nghèo thì thua thiệt và dễ nghèo đi.
Nhiều hộ nông dân đang rơi vào cảnh thua thiệt trước "vòng xoáy" của các quy luật thị trường, nhất là ở những nơi hợp tác xã không còn tồn tại, chính quyền cơ sở lại yếu kém, thì không biết dựa vào đâu? Bởi vậy, sự nghiệt ngã của tình cảnh "nghèo thì nghèo thêm, giàu thì giàu nhanh hơn" đang là tác nhân chính khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo giữa người giàu và người nghèo, giữa nông thôn và thành thị. Đây là nguyên nhân chính của hiện tượng số người tự do di cư ra thành thị kiếm việc làm đang tăng lên. Họ luôn trong tâm lý lo sợ rủi ro, bởi vậy, tư duy "ăn chắc, mặc bền" vẫn là phổ biến, có đồng nào đổ vào "xây nhà xây cửa" chắp vá, cơi nới một cách manh mún và rất tốn kém.
- Vốn tích lũy của các hộ gia đình cũng có sự phân biệt khá rõ giữa các loại hình sản xuất. Theo số liệu của tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn năm 2006 của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2006 vốn tích lũy bình quân một hộ nông thôn là 6,7 triệu đồng, tăng gấp 2,1 lần so với thời điểm tháng 10 năm 2001. Nhưng vốn tích lũy của các hộ sản xuất phi nông nghiệp vẫn vượt lên cao hơn các hộ thuần nông. Hộ vận tải tích lũy bình quân là 14,9 triệu đồng, hộ thương nghiệp là 12,1 triệu đồng, hộ thủy sản là 11,3 triệu đồng, trong khi đó hộ nông nghiệp thuần chỉ tích lũy dưới 4,8 triệu đồng. Lý do chính của việc tiết kiệm tiền trong phần đông các hộ gia đình nông thôn(2) không phải là để tích lũy mở rộng sản xuất, mà 82% số người được hỏi trả lời là để chi trả khám và chữa bệnh khi cần thiết và 70% trả lời là để đề phòng các nhu cầu chi tiêu đột xuất khác, chỉ 6% mong đợi lợi nhuận hay lãi suất.
- Trong kinh tế thị trường, việc tìm ra cây gì, con gì để cho sản xuất hàng hóa lớn đã khó, thì việc tiếp cận đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp mấy năm gần đây cũng đang khó khăn không kém. Đã thế, thị trường đầu vào của sản xuất nông nghiệp biến động rất bất lợi cho các hộ nông dân, giá lên cao liên tục, giao thông khó khăn, vốn ít nên khó khăn trong việc mua giá thấp với khối lượng lớn (mua buôn), mua lẻ thì giá lại rất cao, thiếu những nhà cung cấp tin cậy và ổn định, và còn thiếu cả thông tin để có cơ hội lựa chọn phương án tối ưu.
- Khó khăn trong khâu sơ chế và chế biến sau thu hoạch cũng là một cản trở lớn đối với kinh tế hộ nông dân. Phần lớn các hộ nông dân đều thiếu kỹ thuật và khả năng sơ chế nông sản sau thu hoạch, thiếu thông tin thị trường, chi phí giao dịch cao... Nên phần lớn nông sản chưa nâng được thêm giá trị kinh tế đáng kể trong các khâu tiếp theo của quy trình sản xuất đến tay người tiêu dùng, kể cả mẫu mã, tiếp thị và tiêu thụ, xuất khẩu.
- Nhiều hộ nông dân đang rất cần đến những sự trợ giúp có tính chất cộng đồng, hiệp hội ngành hàng hay hợp tác trong các khâu, nhất là đầu vào và đầu ra của sản xuất, nhưng các hợp tác xã (HTX) hiện nay trong nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng đầy đủ, do chưa hoạt động thật hiệu quả và thiết thực. Theo số liệu điều tra của Trung tâm Phát triển nông thôn (RUDEC) năm 2007, thì HTX chỉ đáp ứng 6,9% nhu cầu phân bón và 13,8% nhu cầu giống, trong khi đó các đại lý tư nhân cung cấp tới 59,2% phân bón và 43,1% giống (xem bảng).
Thực trạng chung của các HTX là, mức vốn hoạt động còn nhỏ, đặc biệt là các HTX trong nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, thương mại. Tỷ lệ vốn cố định ở các HTX rất cao, từ trên 70% đến 95%. Tình trạng này làm cho HTX thường không đủ vốn lưu động để hoạt động, do đó cũng không phát huy được vốn cố định, trong khi vay ngân hàng thì gặp nhiều khó khăn về tài sản thế chấp. Ngược lại, trong lĩnh vực tín dụng thì tỷ trọng vốn cố định rất thấp (chưa đạt 5%), dẫn đến tình trạng chung ở các quỹ tín dụng là cơ sở làm việc rất nghèo nàn, không bảo đảm an toàn cho việc mở rộng hoạt động huy động và cho vay. Tỷ lệ HTX có quan hệ tín dụng với ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác chỉ bằng 11,3% số HTX được thống kê, điều đó cho thấy các HTX chưa phát triển các quan hệ tín dụng với ngân hàng để có thêm vốn phát triển các dịch vụ phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh của xã viên.
- Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt đối với quá trình sản xuất nông nghiệp. Nhưng khó khăn lớn hiện nay là diện tích đất nông nghiệp đang mất vào các khu công nghiệp, khu đô thị và giao thông với tốc độ quá nhanh. Đất trồng lúa nước năm 2005 đã giảm trên 302 ngàn héc-ta so với năm 2000. Theo số liệu thống kê, trong 5 năm qua cả nước đã có khoảng 13% số hộ nông dân bị mất đất, mà lý do chính là bị thu hồi do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Trong khi đó, nhiều hộ khác tuy đã năng động chuyển đổi ngành nghề, nhưng vẫn không đủ "can đảm" (tính chắc chắn của nghề mới chưa bảo đảm cho các hộ chuyển nghề yên tâm) để nhượng ruộng cho người khác canh tác hay thuê người làm. Phần lớn là giữ đất hay có chăng cũng là cho con cháu làm để vừa đủ mức nộp thuế sử dụng đất. Bởi vậy, tốc độ tích tụ, hoặc dồn điền, đổi thửa diễn ra quá chậm so với nhu cầu phát triển sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó, tình trạng lãng phí sử dụng đất diễn ra khá phổ biến. Tại Nam Định, có địa phương người nông dân muốn trả ruộng thì chính quyền xã không nhận, vì thời hạn giao đất vẫn còn hiệu lực, nếu nhận thì xã không thu được lệ phí. Trong khi đó người dân nơi khác đến canh tác thì khó khăn do chính sách cư trú... Tại huyện Từ Sơn, Bắc Ninh có 10.600 hộ nông dân mất đất, làm cho 21.000 lao động không có việc làm, nhưng diện tích thu hồi lại bỏ hoang, chờ dự án, hoặc chỉ sử dụng khoảng 30%...

Quan điểm chung của nhiều nhà hoạch định chính sách ở nước ta hiện nay là làm sao sớm "thoát" khỏi nông nghiệp. Đây là cách hiểu rất thiển cận, thiếu tính bền vững, đối với một nước phải bảo đảm có nguồn lương thực ổn định cho gần 90 triệu dân trong một vài năm tới như nước ta.

- Lề lối làm ăn còn nặng về sản xuất nhỏ, manh mún, chưa thích ứng với kinh tế thị trường. Chữ tín trong làm ăn là rất quan trọng, thế nhưng một số địa phương nông dân sẵn sàng "phá hợp đồng" để được lợi trước mắt do giá thị trường đột ngột lên cao so với hợp đồng, như trong hợp đồng bán hoa hồi cho đối tác Bắc Âu tại Lạng Sơn. Còn chuyện giá cả lên xuống thất thường là quy luật "cung - cầu" của thị trường. Đối với sản xuất nông nghiệp, tính chất mùa vụ và sự lệ thuộc vào đất đai, tiểu khí hậu rất chặt chẽ, nên khó có thể thành công nếu cứ chạy theo sự "lên - xuống" của thị trường. Thế mà, một số nông dân ở huyện Đông Triều, Quảng Ninh, khi giá vải xuống, thì chặt vải trồng cây sưa (cây lấy gỗ phải mất 50 năm mới cho thu hoạch, mà giá lúc đó chưa ai có thể nói rõ là sẽ như thế nào). ở một số địa phương phía Nam cũng vậy, thấy giá một số cây trồng khác đang "sốt", thì vội chặt cây điều đang kỳ cho thu hoạch... Trong khi đó, các ngành chức năng thiếu sự tuyên truyền, giải thích hữu hiệu để có định hướng sản xuất đúng và hơn nữa có quy hoạch cây, con một cách khoa học, ổn định lâu dài. Chẳng hạn, nhiều địa phương đã khá thành công trong việc tìm kiếm thị trường "cần những cái mình có", như chè Nghệ An vào thị trường Trung Đông, gạo, hạt tiêu, cà phê... xuất khẩu ra thế giới.
Hơn nữa, cũng phải tính toán đến cả tình huống mới, khi đang có nhiều cảnh báo trên thế giớ
i(3) đã nói về một cuộc khủng hoảng mới về lương thực đang xuất hiện và sẽ trở nên nghiêm trọng hơn bất kỳ cuộc khủng hoảng lương thực trước đây thế giới từng chứng kiến. Theo ông Đô-nan Cốc (Donald Coxe), thách thức lớn nhất đối với thế giới không phải là 100 USD/thùng dầu, mà thế giới phải có đủ lương thực cho các tầng lớp trung lưu mới và vì vậy đòi hỏi phải tăng sản lượng lương thực. Chỉ riêng giá lúa mì đã tăng 92% trong năm 2007, và ngày 3-1-2008, giá đóng cửa giao dịch là 9,45 USD cho 8 ga-lông tại sàn buôn bán Chi-ca-gô. Theo nhiều dự báo, trong những tháng tới của năm 2008, giá lương thực vẫn tiếp tục tăng.
Những nước xuất khẩu lương thực trước đây như Nga và Ấn Độ hiện nay đang ngừng xuất khẩu lương thực. Khu vực Trung - Tây của nước Mỹ cung cấp 54% sản lượng ngô của thế giới, nhưng gần đây số lượng lương thực được tích trữ của Mỹ cho những vụ tiếp theo đã tụt xuống mức thấp kỷ lục. Do vậy, những nước dư thừa lương thực sẽ có một lợi thế lớn.
Nếu không đánh giá đúng lợi thế này, không khéo chúng ta đang đánh mất những lợi thế đã có để chạy theo những "lợi thế ảo" mà thế giới đang mạnh hơn ta rất nhiều lần. Trong khi đó, muốn làm cho nền nông nghiệp nước nhà phát triển và hội nhập thành công trên đà của những thành tựu đã đạt được trong hơn 20 năm đổi mới đã qua, không có cách nào khác là phải có thêm những chính sách có tính chất đột phá để tạo động lực mới, thật sự mạnh mẽ cho kinh tế hộ phát triển. Đất nước đang cần có nhiều hộ nông dân làm ăn mang tính chuyên nghiệp hơn, bởi vậy kinh tế hộ đang cần có sự hỗ trợ, hợp lực mang tính cộng đồng chặt chẽ hơn mới hy vọng có được sức mạnh trong cạnh tranh khốc liệt của thương trường trước xu thế hội nhập ngày một sâu hơn của nền kinh tế quốc dân.

(nguồn: hua.vn)

Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn...

Sunday, 1. November 2009, 14:08:34

Trên cơ sở nhìn lại hơn 20 năm đổi mới của đất nước và phân tích thực trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ năm 2000 đến nay, Hội nghị T.Ư 7 vừa qua đã tập trung trí tuệ, thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ và nhất trí thông qua Nghị quyết "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" với những nội dung cơ bản như sau:

Về đánh giá thực trạng, Nghị quyết khẳng định kết quả đạt được trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân nước ta trong những năm vừa qua là khá toàn diện và to lớn, khái quát thành năm thành tựu:

Một là, nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia; xuất khẩu nông, lâm thủy sản tăng nhanh; trình độ khoa học - công nghệ được nâng cao hơn. Ðáng chú ý là giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng bình quân 16,8%/năm, năm 2007 chiếm 26% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, một số sản phẩm có vị thế cao trên thị trường thế giới, như gạo, cao-su, cà-phê, hồ tiêu, hạt điều, đồ gỗ, thủy sản.

Hai là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thủy lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, từng bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Nổi bật là sự quan tâm đầu tư phát triển thủy lợi theo hướng đa mục tiêu; từ năm 2000 đến nay đã tăng nhanh cả năng lực tưới và năng lực tiêu, bảo đảm tưới tiêu chủ động cho 83% diện tích gieo trồng lúa, một số cây trồng khác và cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ. Hệ thống đê sông, đê biển được củng cố, nâng cấp một bước, nhiều công trình tiêu thoát lũ và trên 1.100 cụm tuyến dân cư ở đồng bằng sông Cửu Long được xây dựng và phát huy tác dụng...

Ba là, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi mới; kinh tế nông thôn phát triển theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn.

Bốn là, đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện; xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn. Năm 2007 thu nhập bình quân đầu người ở khu vực này tăng 2,7 lần so với năm 2000, đặc biệt là về cơ bản đã xóa được đói, tỷ lệ hộ nghèo hạ xuống còn 18%, thành tựu này được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Ðồng thời, các công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh, phổ cập giáo dục, văn hóa, thông tin, thể thao cũng được quan tâm và đẩy mạnh hơn.

Năm là, hệ thống chính trị ở nông thôn do Ðảng lãnh đạo được tăng cường; dân chủ cơ sở được phát huy; vị thế giai cấp nông dân được nâng cao; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Ðến nay, 89% số thôn, bản có tổ chức Đảng, 56% cán bộ công chức xã được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng với các đoàn thể quần chúng góp phần tích cực giải quyết nhiều vấn đề ở nông thôn... Nông dân chiếm 54% tổng số lao động cả nước, là lực lượng lớn mạnh với trình độ giác ngộ chính trị và kiến thức kinh tế, kỹ thuật đã được nâng lên, cho nên vẫn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Ðảng, xây dựng xã hội nông thôn ổn định dù có lúc khó khăn, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp.

Tuy nhiên, Nghị quyết cũng chỉ rõ năm yếu kém, khuyết điểm: Nông nghiệp phát triển kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt các nguồn lực; chuyển dịch cơ cấu và đổi mới cách thức sản xuất còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ. Công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn.

Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn đổi mới chậm, chưa đủ sức phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai thấp. Ðời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn còn thấp, chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; phát sinh một số vấn đề xã hội bức xúc.

Về quan điểm, mục tiêu, giải pháp đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn mới, Nghị quyết đã nêu rõ:

Bốn quan điểm, trong đó nhấn mạnh: Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn có vị trí chiến lược quan trọng, là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Trong mối quan hệ mật thiết nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển. Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện từng vùng và cả nước.

Ba mục tiêu tổng quát, gồm:

- Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hòa giữa các vùng, đặc biệt tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị giữ vai trò làm chủ nông thôn mới.

- Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại hóa, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.

- Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; nâng cao sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Ðảng; xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nông và đội ngũ trí thức thành nền tảng bền vững bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sáu mục tiêu cụ thể đến năm 2020 phải đạt được (khi nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại) là: Tốc độ tăng trưởng nông lâm thủy sản đạt 3,5-4%/năm, duy trì diện tích trồng lúa đủ bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài; kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn gấp hơn 2,5 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% trong tổng lực lượng lao động, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%.

Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, 50% số xã đạt tiêu chuẩn. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội bảo đảm tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa hai vụ, hơn 3 triệu ha rau màu, 0,65 triệu ha nuôi trồng thủy sản, diện tích làm muối; giao thông thông suốt bốn mùa tới tất cả các xã và có đường ô-tô tới thôn, bản; cấp điện sinh hoạt tới hầu hết dân cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ; đảm bảo cơ bản điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng tiến gần tới mức ở các đô thị trung bình.

Nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; đẩy mạnh giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng tạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền trung và các vùng thường xuyên bị ngập lũ khác; thực hiện một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hoàn chỉnh hệ thống đê sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển đáp ứng yêu cầu ngăn mặn và chống nước biển dâng, gió bão cấp 9-10, tần suất 5%; ngăn chặn và từng bước cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường.

Trước mắt, từ nay đến năm 2010 phải: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nông dân, triển khai một bước công tác xây dựng nông thôn mới; tăng cường nghiên cứu và chuyển giao khoa học - công nghệ, tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực. Tăng cường công tác xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là ở 58 huyện còn hơn 50% hộ nghèo, tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn. Ðạt tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thủy sản 3-3,5%/năm, tốc độ tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn mức bình quân của cả nước. Lao động nông nghiệp còn dưới 50% lao động xã hội. Giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới. Tăng tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch lên 75%; tăng tỷ lệ che phủ rừng.

Những chủ trương, giải pháp: Ðể bảo đảm đạt được những mục tiêu và chỉ tiêu nêu trên, Nghị quyết đã xác định rõ tám nhóm chủ trương, giải pháp cần tập trung chỉ đạo thực hiện, trong đó đặc biệt lưu ý các giải pháp:

- Về quy hoạch: Hoàn thành việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đất đai, quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp, khu công nghiệp và quy hoạch chuyên ngành theo vùng. Quy hoạch xây dựng nông thôn gắn với phát triển đô thị.

- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn hiện đại, gắn với phát triển các đô thị: Phát triển thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý thủy lợi có hiệu quả, nâng hiệu suất sử dụng các công trình thủy lợi lên 80%. Phát triển giao thông nông thôn gắn với mạng lưới giao thông quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa tới mọi vùng trong cả nước. Bố trí lại dân cư nông thôn gắn với việc quy hoạch xây dựng công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị.

- Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, nhất là vùng khó khăn. Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh tế - xã hội: định rõ chính sách bảo đảm việc làm cho nông dân ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất gắn với kế hoạch phát triển của địa phương; đẩy mạnh xuất khẩu lao động từ nông thôn; triển khai kế hoạch hợp tác sản xuất nông nghiệp với một số quốc gia có nhu cầu.

- Ðổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn, như: Hỗ trợ kinh tế hộ phát triển sản xuất hàng hóa theo mô hình gia trại, trang trại. Hợp tác xã phải làm tốt các dịch vụ "đầu vào, đầu ra", kể cả chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Ðổi mới căn bản việc tổ chức quản lý nông, lâm trường quốc doanh; nơi nào đã giao khoán ổn định đất, vườn cây cho người lao động thì nông trường chuyển mạnh sang làm tốt các dịch vụ cho người nhận khoán và nông dân trong vùng, nhất là hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vật tư, tiêu thụ và chế biến sản phẩm.

Nơi nào chưa giao khoán đất, vườn cây ổn định, mới khoán theo công đoạn hoặc trả lương theo sản phẩm thì tiến hành cổ phần hóa. Tạo môi trường thật sự thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh loại hình doanh nghiệp nông thôn, nhất là các doanh nghiệp có đầu tư sản xuất, chế biến nông lâm thủy sản, sử dụng nguyên liệu và thu hút nhiều lao động tại chỗ... Phát triển mạnh doanh nghiệp công nghiệp phục vụ nông nghiệp.

- Ðẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, đào tạo nguồn nhân lực tạo bước đột phá để hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn. Tăng đầu tư ngân sách cho công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ để sớm đạt trình độ tương đương các nước tiên tiến trong khu vực; xây dựng chính sách đãi ngộ thỏa đáng, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia công tác này. Thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp, nhà khoa học với nông dân trong sản xuất kinh doanh.

- Ðổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách: hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung Luật Ðất đai theo hướng tiếp tục khẳng định đất đai là sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch để phân bổ và sử dụng có hiệu quả. Hộ gia đình, cá nhân được giao đất ổn định lâu dài; mở rộng hạn mức sử dụng đất; công nhận và xây dựng các thể chế vận hành thị trường về quyền sử dụng đất công khai, minh bạch; thúc đẩy quá trình chuyển dịch, tập trung đất đai; điều chỉnh giá đất bồi thường cho người bị thu hồi đất theo nguyên tắc bảo đảm hợp lý lợi ích các bên liên quan (bên giao, bên nhận đất và Nhà nước). Có cơ chế để người dân góp giá trị quyền sử dụng đất thành lập công ty, doanh nghiệp... Có quy hoạch và biện pháp bảo vệ diện tích đất trồng lúa ở mức bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là Hội Nông dân.

Nghị quyết T.Ư 7 "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" được ban hành vào lúc nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đứng trước nhiều thời cơ thuận lợi, nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức cả ở trong nước và từ kinh tế thế giới dội vào. Vấn đề đặt ra là phải nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức với những giải pháp linh hoạt, sáng tạo, hợp lý và đồng bộ. Chúng ta đã đi qua nửa chặng đường của nhiệm kỳ khóa X của Ðảng. Với việc ban hành ba Nghị quyết, trong đó có Nghị quyết "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn", Hội nghị lần thứ 7 BCH T.Ư đã hoàn thành việc cụ thể hóa những nội dung quan trọng, chủ yếu trong Văn kiện Ðại hội X của Ðảng. Nghị quyết "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" cùng với các Nghị quyết khác của các Hội nghị T.Ư 3, 4, 5, 6, 7 nằm trong một chỉnh thể thống nhất, có quan hệ mật thiết với nhau, do đó cần nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, tạo sự nhất trí cao về nhận thức và đồng bộ về biện pháp thực hiện thì mới hoàn thành thắng lợi các mục tiêu đã đề ra, góp phần tích cực vào việc hoàn thành toàn diện Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng.

Nguồn: http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=3923&Itemid=37

Đừng để nông dân thêm yếu thế trong cơ chế thị trường


Ngày cập nhật: 31/3/2008
Nguồn tin: VietNamnet, 30/03/2008

GS.Viện sĩ Đào Thế Tuấn, Chủ tịch Hội Khoa học phát triển nông thôn, nguyên Viện trưởng Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam, cho rằng, phát triển nông thôn phải tăng phúc lợi cho người nông dân, vì họ đang là bộ phận yếu thế nhất trong xã hội.

GS.Viện sĩ Đào Thế Tuấn nói: Có một sự hiểu nhầm rằng, phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn là một, và Chính phủ giao Bộ NN-PTNT lo về phát triển nông thôn. Trên thực tế, Bộ này chưa làm được gì nhiều cả. Ngày trước, việc phát triển nông thôn do Bộ máy bên Đảng làm, có Ban Nông nghiệp TƯ lo tất cả các vấn đề về nông thôn như cải cách ruộng đất, hợp tác hoá, xây dựng nông thôn như thế nào... , được cụ thể trong Chỉ thị 100, Nghị quyết TƯ 10.

Bây giờ, đưa nông thôn về Bộ NN-PTNT, trong khi Bộ hầu như chỉ lo phát triển sản xuất và phòng chống thiên tai, mà lẽ ra phòng chống thiên tai là do Bộ Tài nguyên - Môi trường phải làm. Nên mỗi lần có thiên tai, Bộ trưởng Bộ NN-PTTN lại phải chạy khắp các địa phương để chỉ đạo, không có thì giờ để lo phát triển nông thôn.

Bao giờ nông dân thoát cảnh "con trâu đi trước, cái cày theo sau"?

Thứ hai, ở Việt Nam có sự hiểu nhầm về chuyện phát triển nông nghiệp tốt thì phát triển nông thôn tốt vì nông nghiệp đi lên kéo theo nông thôn phát triển. Thực tế không phải như vậy. Nông nghiệp là ngành sản xuất còn nông thôn là lãnh thổ. Hầu như tất cả các bộ, ngành của ta đều có bộ phận lo về nông thôn, như Giáo dục, Y tế rồi LĐ-TBXH... Vậy tại sao lại giao cho một bộ phụ trách cả công việc lớn như vậy?

Hiện nay, trong phát triển nông thôn có hai vấn đề lớn: ruộng đất và lao động, nhưng Bộ NN-PTNT lại không được quản lý.

GDP càng tăng, thu nhập của nông dân càng giảm

- Chính phủ, Bộ NN-PTNT cũng đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người nông dân, như miễn giảm thuỷ lợi phí và nhiều khoản thuế khác. Song, thưa ông, tại sao người nông dân vẫn là đối tượng phải gánh chịu rủi ro đầu tiên, nhiều nhất trong quá trình phát triển?

- Giảm tất nhiên thì tốt rồi, nhưng cái đó không phải là chính. Ở Trung Quốc, thu nhập của người dân thành thị cao hơn nông thôn 3,6 lần. Họ cho rằng, đó là mới tính thu nhập bằng tiền chứ chưa tính phúc lợi là giáo dục và y tế. Nếu cộng cả hai yếu tố này, khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn - thành thị Trung Quốc là hơn 5 lần. Con số này ở Việt Nam hiện là 2,6 lần. Nếu tình hình vẫn như hiện nay thì sẽ giống như Trung Quốc.

Theo tôi, muốn giải quyết được vấn đề phúc lợi, không thể làm theo kiểu kinh tế thị trường. Bây giờ Việt Nam đang lẫn lộn giữa xã hội hoá, thị trường hoá và tư nhân hoá. Nếu muốn làm phúc lợi cho nông dân, phải xã hội hoá. Xã hội hoá thực chất là bắt dân đóng tiền thôi. Xã hội hoá là cả xã hội phải lo công việc đó.

Hội Khoa học Phát triển nông thôn của chúng tôi kết hợp tổ chức thực hiện mô hình Tủ thuốc thú y ở Chợ Đồn (Bắc Kạn). Muốn vào tổ chức này thì phải đóng tiền. Chẳng hạn, nuôi một con lợn đóng mấy nghìn, gà đóng mấy nghìn. Tiền đó đi mua thuốc thú y tiêm phòng, trị bệnh cho vật nuôi. Nếu con vật đó chết, bà con sẽ được đền bù - đây thực chất cũng là một loại bảo hiểm.

Tuy nhiên, chẳng có vật nuôi nào chết cả vì đã được tiêm phòng hết rồi nên quỹ đó thừa tiền cho vay không lãi để phát triển sản xuất. Tức là, từ hoạt động bảo hiểm ra hoạt động tín dụng. Bây giờ, mô hình này hoạt động rất tốt và được nhân rộng ra toàn Bắc Kạn. Bảo hiểm cho nông dân là vậy, nhưng đi từ những việc nho nhỏ.

Như vậy, rõ ràng vẫn có cách để làm, nhưng hiện nay không có ai làm cả. DN làm là lỗ vì thiên tai nhiều quá.

- Với nông thôn, nông dân, phải chăng Việt Nam chưa có một chính sách dài hạn, một tầm nhìn xa mà chúng ta vẫn điều hành theo kiểu đối phó diễn biến sự kiện, sự việc?

- Sự nghiệp cải cách, phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta hiện nay không bền vững. Chính phủ, các nhà kinh tế đang mải chạy theo tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng GDP (tổng sản phẩm quốc nội). Trong khi đó, GDP càng tăng thì thu nhập của nông dân càng giảm.

Qua nghiên cứu, tôi thấy hai vùng nông nghiệp phát triển tốt nhất nước hiện nay (ĐBSCL và Tây Nguyên) cũng là hai vùng nông thôn lạc hậu nhất, thu nhập nông dân tăng chậm nhất. Ở ĐBSCL, tỷ lệ trẻ em đi học thấp hơn cả miền núi phía Bắc, nông dân nghèo bỏ ruộng đi hết. Nếu vùng này không cơ giới hoá nhanh sẽ khó tiếp tục sản xuất tốt được.

Cần nhân rộng tính năng động

- Nhiều ý kiến cho rằng, nông dân Việt Nam có tính trông chờ, bị động, không vượt qua được sự hạn chế của chính mình nên luôn là đối tượng để làm từ thiện?

- Nông dân ở nước ta thường là thụ động, chờ đợi sự hỗ trợ, thiếu tính năng động, trừ một số vùng đặc biệt có vốn xã hội cao. Tuy vậy, hiện có nhiều vùng nông dân rất năng động nhưng còn thiếu việc nghiên cứu các trường hợp năng động ấy để có thể chuyển giao tính năng động sang các vùng khác.

Chúng tôi đang nghiên cứu đề tài về làng nghề, cụm làng nghề có sự phát triển nổi trội, đặc biệt là ở Bắc Ninh. Từ nông dân, họ tìm ra nhiều cách làm ăn năng động. Mỗi làng đẻ ra hàng nghìn, hàng vạn DN nhỏ và vừa, tức là một hộ nông dân đứng ra kinh doanh, buôn bán rồi trở thành DN. Tất cả những việc đó chẳng ai hỗ trợ họ cả. Các hộ trung nông trở thành các trang trại gia đình cũng chính là DN.

Đây chính là các mô hình thúc đẩy sản xuất phát triển. Nếu biết tổng kết, nhân rộng cái đó thì GDP của Việt Nam còn tăng gấp đôi, vì tất cả sản xuất đó hiện không được tính vào GDP.

- Một vấn đề nóng bỏng hiện nay là người nông dân đang thiếu nghiêm trọng tư liệu sản xuất do mất đất trong quá trình CNH-HĐH. Thưa ông, cơ chế nào để thúc đẩy việc tập trung hoá ruộng đất từ các hộ không làm nông nghiệp hoặc làm nông nghiệp không hiệu quả vào tay các hộ chuyên sản xuất nông nghiệp?

- Các hộ nông dân nghèo, thiếu điều kiện để sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, nên giúp họ chuyển sang công nghiệp và dịch vụ ở đô thị hay ở nông thôn, nhường lại đất cho các hộ phát triển nông nghiệp.

Cơ chế thì rất dễ. Tiền mà mình bỏ ra để đền bù thì mua lại đất của họ. Tôi tính thế này, các gia đình muốn bỏ đất lên thành phố sinh sống thì Nhà nước nên hỗ trợ họ bằng cách mua lại đất. Song, đến nay chưa có chương trình nào như vậy cả mà người dân đang làm hoàn toàn tự phát. Họ tự bán đất lên thành phố, không sống được đành quay về.

- Bộ NN-PTTN đang xây dựng chương trình chính sách Tam nông (nông nghiệp - nông thôn - nông dân). Chương trình này phải đưa ra quyết sách gì để giải quyết được cơ bản các vấn đề còn tồn tại trong nông thôn Việt Nam hiện nay?

- Nếu muốn làm được phải thay đổi bộ máy và cách làm việc của Bộ NN-PTTN. Với cách làm hiện nay, Bộ chưa hiểu nhiều về nông thôn, nông dân. Nhiều cán bộ nông nghiệp có đi nông thôn đâu, toàn ngồi bàn giấy nên hay nói dựa, nói theo.

Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta hiện nay, về thực chất, là vấn đề phát triển bền vững. Nếu công cuộc Đổi mới của nước ta dẫn đến một sự phân hoá xã hội quá mức, tăng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn thì sự phát triển sẽ không bền vững. Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là ba vấn đề khác nhau, song, nếu không cùng được giải quyết một cách đồng bộ thì không thể CNH-HĐH đất nước một cách vững chắc được.

- Xin cảm ơn ông

Trả lời các vấn đề về chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn

Theo Báo Điện Biên Phủ - 14/01/2010

Kiến nghị: Đề nghị Nhà nước sớm cụ thể hoá chính sách để quan tâm đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn, có chính sách quy hoạch và phát triển kinh tế theo vùng, miền, bao tiêu sản phẩm, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng cường đầu tư kinh phí để xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, các công trình văn hoá xã hội, từng bước giảm dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn; đề nghị nhà nước nghiên cứu xây dựng “mô hình nông thôn mới” và hỗ trợ kinh phí cho các địa phương xây dựng nông thôn mới.

Trả lời: Bộ NN-PTNT trả lời tại Công văn số 2847/BNN-KTHT ngày 08/9/2009 như sau:

Vấn đề cử tri đặt ra cũng là những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ giao cho Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để giải quyết, như sau:

Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã ban hành Nghị quyết số 26 NQ/TW ngày 09/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn thời kỳ 2009-2020. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã phối hợp với các đơn vị khác liên quan hoàn thiện và trình Chính phủ ban hành Nghị quyết 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 về chương trình hành động của Chính phủ để khẳng định và bổ sung nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Hiện nay các quan điểm, mục tiêu và nội dung của Nghị quyết Trung ương đang được các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gấp rút tổ chức triển khai những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

a. Thống nhất nhận thức, hành động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

b. Xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia đến năm 2020 gồm: Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới; Chương trình mục tiêu Quốc gia về thích ứng với sự biến đổi khí hậu; Chương trình mục tiêu Quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực nông thôn.

c. Nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch: Xây dựng quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020; Rà soát và xây dựng mới các quy hoạch; rà soát, bổ sung quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020; rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển giao thông; rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển thuỷ lợi; rà soát, bổ sung quy hoạch về chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao.

d. Xây dựng các đề án chuyên ngành theo các nhóm: Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại; Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho dân cư nông thôn; đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn; phát triển khoa học - công nghệ để phát triển nông nghiệp hiện đại và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và nâng cao năng lực quản lý nhà nước.

e. Đối với một số dự án Luật và chính sách trong đó có bổ sung, sửa đổi một số các chính sách như: Sửa đổi Luật Đất đai, Luật Ngân sách, Luật Đầu tư. Xây dựng các bộ Luật: Nông nghiệp, Thú y, Bảo vệ thực vật, Vệ sinh an toàn thực phẩm, Luật Tài nguyên nước; xây dựng chính sách bảo vệ đất lúa và an ninh lương thực quốc gia, chính sách tín dụng nông thôn; chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn; chính sách thu hút tri thức về nông thôn.

Về xây dựng mô hình nông thôn mới: Hiện Ban bí thư Trung ương Đảng đã lựa chọn 11 địa phương triển khai xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới theo các tiêu chí nông thôn mới của Chính phủ ban hành. Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đang gấp rút xây dựng nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 và tầm nhìn 2030, dự kiến trình Chính phủ trong tháng 9/2009 và đưa ra xin ý kiến Quốc hội vào tháng 10/2009 để có thể triển khai từ năm 2010.

Đề nghị đẩy mạnh chương trình kiên cố hoá kênh mương

Kiến nghị: Các công trình thuỷ lợi, hệ thống hồ đập, kênh mương hiện nay, nhiều nơi đã xuống cấp hết sức nghiêm trọng, không đảm bảo tưới tiêu sản xuất nông nghiệp, đề nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục đẩy mạnh đầu tư Chương trình kiên cố hoá kênh mương, cơ giới hoá trong nông nghiệp góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương.

Trả lời:Vấn đề này, Bộ NN-PTNT trả lời tại công văn số 2638 / BNN-TL ngày 28/8/2009

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt các Quyết định số 13/2009/QĐ-TTg ngày 21 tháng 01 năm 2009 và số 56/2009/QĐ-TTg ngày 15 tháng 4 năm 2009 về việc sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để tiếp tục thực hiện các chương trình kiên cố hoá kênh mương, phát triển đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn giai đoạn 2009-2015 và đầu tư sửa chữa, xây dựng trạm bơm điện phục vụ tưới tiêu trong nông nghiệp khi có nhu cầu. Theo đó, năm 2009, Nhà nước bố trí 4.000 tỷ đồng (từ năm 2010 trở đi, mỗi năm khoảng 2.000 tỷ đồng) từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để hỗ trợ các địa phương thực hiện các chương trình trên.

Thực hiện các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ tài chính đã có Quyết định số 249/QĐ-BTC ngày 06 tháng 02 năm 2009phân bổ mức vốn vay năm 2009 cho từng địa phương và Thông tư 156/2009/TT-BTC ngày 03 tháng 8 năm 2009 hướng dẫn cơ chế vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương, đầu tư các dự án đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn và trạm bơm điện phục vụ tưới tiêu trong nông nghiệp khi có nhu cầu.

Triển khai chương trình hành động của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá X về nông nghiệp-nông thôn-nông dân, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có Chỉ thị số 1010/CT-BNN-TL ngày 20/4/2009 về việc tiếp tục triển khai chương trình kiên cố hoá kênh mương và văn bản số 2793/BNN-TL ngày 19/5/2009 yêu cầu các Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đánh giá kết quả thực hiện công tác kiên cố hoá kênh mương những năm qua, đề xuất danh mục các dự án kiên cố hoá kênh mương, phương án tổ chức quản lý hệ thống kênh mương sau đầu tư. Trên cơ sở báo cáo của các địa phương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ tổng hợp nhu cầu đầu tư kiên cố hoá kênh mương giai đoạn 2009-2015, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ đầu tư.

Đề nghị nâng mức hỗ trợ khoanh nuôi, bảo vệ rừng

Kiến nghị: Đề nghị Chính phủ xem xét nâng mức hỗ trợ khoanh nuôi bảo vệ rừng, vì hiện nay mức hỗ trợ quá thấp so với giá cả thị trường, không đảm bảo và khuyến khích được người dân tích cực tham gia phát triển và bảo vệ rừng.

Trả lời: Bộ NN-PTNT đã trả lời tại Công văn số 2608/BNN-TL ngày 27/8/2009:

- Mức hỗ trợ khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng và khoán bảo vệ rừng phòng hộ và đặc dụng trong dự án “Trồng mới 5 triệu ha rừng” hiện nay đang được thực hiện theo Quyết định số 100/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với mức 100.000đ/ha/năm trên số diện tích theo kế hoạch hàng năm theo Nghị quyết 73 của Quốc hội;

Ngoài ra Chính phủ cũng đã điều chỉnh tăng mức hỗ trợ và tăng diện khoán bảo vệ rừng đối với các huyện nghèo thuộc đối tượng của Nghị quyết 30a.

- Theo đề nghị của cử tri nhiều tỉnh, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng phương án tăng mức khoán bảo vệ rừng và đã có Văn bản số 1903/BNN-LN ngày 02/7/2009 gửi Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư về vấn đề này; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang tổng hợp ý kiến của các Bộ có liên quan và sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét trong thời gian tới.

Về chất lượng phân bón

Kiến nghị:Tình trạng làm và buôn bán phân bón giả, kém chất lượng chưa được ngăn chặn và đẩy lùi, gây thiệt hại cho nông dân. Cử tri đề nghị các ngành, các cấp có sự chỉ đạo, phối hợp kiểm tra và có chế tài nghiệm minh đối với các hành vi này nhằm giảm thiệt hại cho nông dân

Trả lời: Tại Công văn số 2777/BNN-TT ngày 03/9/2009, Bộ NN-PTNT trả lời như sau:

Để tránh gây thiệt hại cho nông dân, trong thời gian qua Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan đã xây dựng trình Quốc hội ban hành hoặc trực tiếp ban hành các văn bản quy định mức xử phạt đối với người sản xuất, nhập khẩu, buôn bán các loại phân bón kém chất lượng, phân bón giả tại các văn bản sau:

- Luật chất lượng sản phẩm hàng hoá số 05/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007;

- Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 02/7/2002;

- Pháp lệnh số 04/2008/QH12 ngày 02/4/2008 sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 02/7/2002;

- Nghị định số 113/2003/NĐ-CP ngày 07/10/2003 của Chính phủ về quản lý sản xuất, kinh doanh phân bón, Nghị định số 191/2007/NĐ-CP ngày 31/12/2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 113/2003/NĐ-CP ngày 07/10/2003 về quản lý sản xuất, kinh doanh phân bón;

- Nghị định số 37/2005/NĐ-CP, ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy định thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế, thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính;

- Nghị định số 54/2009/NĐ-CP ngày 05 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm hàng hoá;

- Chỉ thị số 28/2008/CT-TTg ngày 08/9/2008 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện phápcấp bách chống hàng giả, hàng kém chất lượng;

- Trường hợp vi phạm gây hiệu quả nghiêm trọng, sản xuất, kinh doanh phân bón giả thì xử lý hình sự và truy tố trước pháp luật theo quy định tại điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159 của Bộ Luật hình sự;

- Quyết định số 100/2008-BNN ngày 15/10/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc ban hành Quy định sản xuất, kinh doanh và sử dụng phân bón; Quyết định số 106/2008/QĐ-BNN ngày 29/10/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành Quy định về chỉ định và quản lý hoạt động người lấy mẫu, người kiểm định, phòng kiểm nghiệm, tổ chức chứng nhận chất lượng giống, sản phẩm cây trồng và phân bón.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện phân cấp triệt để công tác kiểm tra chất lượng cho các địa phương, đã tổ chức đào tạo người lấy mẫu phân bón cho các đối tượng là cán bộ thanh tra, cán bộ quản lý thị trường, hải quan và các cán bộ chuyên môn của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để thống nhất việc lấy mẫu phân bón trong phạm vi toàn quốc. Thực hiện thẩm định chỉ định các đơn vị phân tích chất lượng phân bón trên toàn quốc.

Thực hiện Quyết định của Chính phủ, Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng các ban ngành khác đang soạn thảo, xây dựng Nghị định xử phạt hành chính trong lĩnh vực phân bón. Tại Nghị định này các khái niệm hàng giả, hàng kém chất lượng sẽ được làm rõ để làm cơ sở cho việc xử phạt. Nếu xác định là hàng giả thì sẽ bị xử lý hình sự. Mức xử phạt được đưa ra tuỳ theo mức độ vi phạm về chất lượng, mức độ gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xử phạt theo mức luỹ tiến đảm bảo sự răn đe và làm trong sạch môi trường sản xuất, kinh doanh phân bón.

Tuy nhiên do hiện nay ta phải nhập 50% lượng URE, 100% lượng phân SA, DAP, Kaly nên giá cả phụ thuộc rất lớn vào thị trường quốc tế. Để giúp bình ổn giá, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công thương thường xuyên dự báo thị trường, thông tin đến các địa phương, doanh nghiệp xu thế giá cả, đề xuất những biện pháp về thuế xuất nhập

van de tam nong

Ông Lê Huy Ngọ thường được gọi là “bộ trưởng nông dân”. Có lẽ vì ông đã có hơn 10 năm giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (1997 - 2007). Và có lẽ vì ông đã từng lăn lộn rất nhiều từ khi còn làm bí thư hai tỉnh Vĩnh Phú và Thanh Hóa.

Có không ít điều, về nông nghiệp và nông thôn, ông Ngọ tích luỹ được từ khi đang tại chức. Nhưng cũng có những điều ông chỉ có thể thực sự nói ra khi không còn giữ một chức vụ gì.

Thưa ông, ông nghĩ gì về “tam nông”, một vấn đề đang được bàn luận?


Chính sách “tam nông” bắt đầu từ Trung Quốc. Tham khảo kinh nghiệm quốc tế là cần thiết, tuy nhiên tôi cũng muốn lưu ý rằng, bài học “cải cách ruộng đất” cho thấy, trong các vấn đề về nông dân, không phải thành công nào của Trung Quốc đem áp dụng vào Việt Nam cũng được.

Thưa ông, dường như “kinh nghiệm Trung Quốc” không được đề cập trong các thảo luận gần đây, nhưng vì sao ông lại có vẻ như không hài lòng với “tam nông”?


Tam nông là nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Nói thì dài dòng vậy nhưng tựu trung của 3 vấn đề này chỉ là nông dân. Nông dân thì làm nông nghiệp và ở nông thôn. Trong một nước nông nghiệp và có tới 73% dân số là nông dân như Việt Nam, nông dân vẫn luôn là “hậu phương”, là nền tảng tạo ra sự ổn định về chính trị. Chỉ khi giải quyết được vấn đề nông dân thì các vấn đề khác mới có cơ may giải quyết.

Đồng ý với ông rằng nông dân phải là vấn đề trung tâm, tuy nhiên, có thể “tam nông” cũng là một cách tiếp cận?


Chỉ khi nông dân được xác định là trung tâm của một chính sách, thì chính sách ấy mới có thể phát huy. Cải cách ruộng đất, chia ruộng cho dân nghèo là một chính sách nhắm vào nông dân. Khi người dân yên tâm có ruộng, hàng vạn thanh niên nông thôn mới sẵn sàng lên đường.

Hòa bình lập lại, ruộng đất được tập trung vào các tập đoàn, hợp tác xã cho các tham vọng nông nghiệp, nông thôn lớn, thì người nông dân “ra rìa”. Đến khi “khoán sản phẩm”, giao ruộng lại để cho nông dân tự làm thì không những giải quyết được vấn đề lương thực cho cả nước mà chính nông dân còn đi đầu “đổi mới tư duy”.

Theo ông thì như thế nào để xác định một chính sách đã coi nông dân là trung tâm?


Hãy quan sát từ những hiện tượng: bên cạnh ầm ầm thuỷ điện chỉ là những nông dân đứng nhìn; rồi chính những người dân đã hiến đất để làm nhà máy điện lại là những người cuối cùng sống trong những vùng không có điện.

Tương tự, khi lấy đất làm khu công nghiệp, nông dân cũng bị đặt ra bên lề. Nông dân chưa được coi là trung tâm, là chủ thể của quá trình quy hoạch, thu hồi đất và xây dựng các công trình ấy. Họ chưa được hỏi đầy đủ và chưa được tham gia các quá trình đàm phán như là một chủ thể của quá trình này.

Thưa ông, nông dân chưa được coi là chủ thể tham gia các quá trình đàm phán phải chăng là bởi các bên vẫn quan niệm đất đai thuộc sở hữu toàn dân chứ không phải là của nông dân?


Vâng, đó là mấu chốt. Từ bao đời nay, đất đai vừa là nhu cầu căn bản, vừa là khát vọng lớn nhất của người nông dân. Đất đai là cuộc sống và cũng là văn hoá. Thái độ của chúng ta đối với đất đai đã biến nông dân, từ vị trí lẽ ra là người làm chủ lại trở thành những người đóng vai trò mờ nhạt trong những tiến trình thay đổi đó.

Thưa ông, tại sao đất đai cứ nhất định phải là “sở hữu toàn dân”?


Khi tôi còn làm, trong lãnh đạo có những người sợ rằng, mai đây, nhu cầu công nghiệp hoá đất nước sẽ cần đất đai nhiều, giao sở hữu cho dân rồi làm sao thu hồi. Cái gốc của vấn đề là, chúng ta vẫn coi tập thể, kinh tế nhà nước đóng vai trò “định hướng”. Khi nhà nước đã là định hướng thì làm sao đất đai có thể được giao sở hữu cho người dân.

Giờ đây thì chúng ta đã có những bài học để thấy, “vô chủ” như tình trạng quản lý đất đai hiện nay làm sao trở thành “nền tảng”; hiệu quả kinh tế thấp như khối kinh tế quốc doanh thì sẽ “định hướng” đất nước tới nơi nào.

Thưa ông, đất đai nói là thuộc sở hữu toàn dân nhưng thực ra lại đang nằm trong tay của chính quyền cơ sở. Sự lạm quyền trong việc thu hồi đất của nông dân để giao cho các nhà kinh doanh đang khiến cho 85% khiếu kiện của nhân dân hiện có liên quan đến vấn đề ruộng đất, vì sao Nhà nước không nhận thấy để tháo sớm “ngòi nổ” này?


Có lẽ phải bắt đầu từ các hiện tượng xảy ra trong nông dân. Có thời kỳ ở nông thôn, nông dân nhận khoán chui; giờ đây, nông dân đang phải bán ruộng chui với bao nhiêu tiêu cực.

Các doanh nghiệp đang mua đất của nông dân để làm sân golf, khu công nghiệp bằng cách ép giá. Bởi vì đất của nông dân mà họ đâu có được thảo luận giá với người mua. Các doanh nghiệp chủ yếu làm ăn với chính quyền địa phương, chính quyền bằng nhiều cách khác nhau đã gây áp lực để người dân nhận một khoản “đền bù” không hợp lý.

Nếu người nông dân bán ruộng dựa trên quyền sở hữu của họ, tôi tin là họ sẽ cân nhắc hơn, không chỉ về giá.

Theo ông, nên giải quyết vấn đề này thế nào?


Cho dù đất đai, về danh nghĩa, thuộc sở hữu của ai thì quyền sử dụng đất của nông dân vẫn là tài sản, việc định giá tài sản đó vẫn phải áp dụng cơ chế thị trường để giải quyết. Tuy nhiên, “sở hữu toàn dân” trên thực tế đã bộc lộ rằng, không những những “ưu việt” mà ta mong không đạt được, quyền lực thực tế về đất đai đã rơi vào tay của một số cá nhân nắm quyền ở các địa phương.

Những tiêu cực trong vấn đề quản lý thu hồi và giao đất không những đã tác động tới tiến trình sử dụng hiệu quả đất đai mà còn khiến cho mâu thuẫn giữa Nhà nước và nông dân trở thành một vấn đề chính trị. Chính vì thế, theo tôi chúng ta cũng không nên ngần ngại sửa một vài điều trong Hiến pháp.

Cái gì cũng vậy, có danh chính ngôn thuận thì mới có minh bạch vừa tránh được tiêu cực vừa tạo ra nền tảng ổn định cho cả chính trị và xã hội.

Một quy định khác trong Luật Đất đai có liên quan đến nông dân là “hạn điền”, thưa ông, hạn chế tích tụ ruộng đất cũng đang là một nguyên nhân khiến cho nông nghiệp không thể nào phát triển?


Bình quân ruộng đất của cả nước hiện nay chỉ có 1000m2/nông dân; một hộ ở đồng bằng sông Hồng chỉ có 3.600m2 và một hộ ở ĐBSCL chỉ có 5.000m2.

Muốn cho nông dân thoát nghèo thì chính sách đất đai phải làm sao để chuyển nông nghiệp truyền thống sang một nền nông nghiệp hiện đại tạo ra giá trị cao. Với quy mô đất đai như vậy thì không thể nào thực hiện được. Tất nhiên, muốn có những vùng sản xuất hàng hoá lớn cũng có thể thực hiện bằng cách “dồn điền đổi thửa”; các hộ nông dân có thể liên kết lại để áp dụng khoa học kỹ thuật.

Nhưng không đơn giản để thực hiện điều này, theo tôi, tích tụ ruộng đất là một quy luật không thể cưỡng lại.

Thưa ông, những người không ủng hộ tích tụ ruộng đất biện minh rằng, tích tụ sẽ khiến cho một số nông dân bán ruộng trở thành thất nghiệp. Trong khi đó, Nhà nước lại đang ủng hộ nhiều doanh nghiệp “thu hồi” hàng ngàn hecta ruộng của nông dân để làm sân golf hoặc khu công nghiệp. Hai quá trình này đâu có gì khác nhau và lý lẽ này liệu có còn đủ sức thuyết phục?


Như tôi đã nói, làm sân golf, khu công nghiệp hay tích tụ ruộng đất để hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp đều có tính hai mặt. Tuy nhiên, nếu như quá trình này diễn ra minh bạch, nông dân là chủ thể đàm phán và có thể tham gia ngay từ đầu thì họ sẽ không bị đặt ra bên lề. Đừng nghĩ, cho tích tụ, nông dân sẽ ồ ạt bán ruộng. Ruộng đất là cuộc sống của cả gia đình họ, Nhà nước không thể nào lo lắng cho họ hơn chính họ được đâu.

Thưa ông, công nghiệp hoá không chỉ theo một hướng áp đặt như Nhà nước vẫn làm, mang nhà máy về xây dựng trên đất ruộng, mà công nghiệp hoá còn có thể xuất hiện tự nhiên bắt đầu từ việc tích tụ ruộng đất, làm nảy sinh nhu cầu cơ giới hoá, hiện đại hoá, nhu cầu phát triển đa dịch vụ tại nông thôn, tại sao Nhà nước lại không cho tích tụ để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá tự nhiên đó?


Chúng ta hãy quan sát những người nông dân phải lên thành phố ở nhà thuê, ăn cơm bụi, thu nhập của những người đó dù có đạt 2 triệu/tháng cũng khó mà đủ sống. Trong khi nếu cũng những người đó vẫn ở nông thôn, lao động trong các cơ sở công nghiệp dịch vụ tại chỗ, thì mức lương khoảng một triệu là đã rất ổn rồi.

Phải thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông sang đa dạng hơn, có công nghiệp, có dịch vụ. Phải đầu tư hạ tầng phục vụ nông dân. Làm sao giữ chân được thanh niên, làm sao trí thức có thể về nông thôn nếu như ở đấy không có nước sạch, không có điện… Đừng bỏ quên nông dân trong những điều kiện thiếu thốn ở làng. Đừng để cho những nông dân phải vật vã trên những góc phố đô thị để lây lất kiếm sống.

Hầu hết người dân Việt Nam hiện nay đều có nguồn gốc từ nông dân. Đừng vội quên nguồn cội. Hãy đặt mình trong hoàn cảnh của cha anh mình trước khi ban hành một chính sách nào đó. Không nhà nước nào có thể lo hết mọi thứ.

Tích tụ ruộng đất chỉ là một vấn đề cụ thể. Cái lớn hơn trong phương pháp tiếp cận theo tôi là, mọi chính sách đều phải đặt người nông dân vào vai trò trung tâm, phải làm sao để người nông dân trở thành chủ thể quyết định những vấn đề của họ.

Giải quyết những vấn đề nông dân đang quan tâm

Giải quyết những vấn đề nông dân đang quan tâm
Cập nhật: Thứ tư, 7/7/2010 | 8:07:49 Sáng
Những năm qua, các cấp, các ngành thường xuyên quan tâm giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân (tam nông), nhờ đó bộ mặt nông thôn có nhiều chuyển biến, đời sống nông dân ngày càng cải thiện. Tuy nhiên, thực tế hiện nay người dân nông thôn đang gặp một số khó khăn trong sản xuất và giải quyết việc làm cần được quan tâm giải quyết.

Về vốn sản xuất

Có ba nguyên nhân khiến nông dân trong tỉnh thiếu vốn sản xuất. Thứ nhất, là ruộng đất canh tác bình quân theo lao động rất thấp, chỉ khoảng 2 sào/lao động, sản xuất manh mún, năng suất lao động và tỷ trọng hàng hoá thấp, giá thành cao làm cho nông dân không có khả năng tích luỹ hoặc tích luỹ ít. Thứ hai, một bộ phận hộ nông dân có thu nhập khá từ xuất khẩu lao động song chưa dành vốn cho phát triển sản xuất mà đầu tư về xây nhà, mua sắm đồ dùng sinh hoạt; một số hộ năng động, có điều kiện, kinh nghiệm và nhu cầu vay vốn nhiều để đầu tư mở rộng sản xuất nhưng lại thiếu tài sản thế chấp. Thứ ba, các hộ nghèo, gia đình có người bị ốm đau, tai nạn hoặc các hộ sản xuất bị thiên tai, dịch bệnh… nên không có hoặc không còn vốn để đầu tư.

Để giải quyết vấn đề trên, hiện nay người nông dân chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng, quỹ tín dụng trong tỉnh, sự giúp đỡ tương trợ của một số HTX, doanh nghiệp, tổ chức hội và họ hàng, xóm láng. Vì vậy để giải quyết vốn sản xuất, đề nghị các cấp, các ngành, địa phương tiếp tục tạo điều kiện để giúp các lao động đi lao động có thời hạn ở nước ngoài, tạo vốn liếng làm ăn sau này. Đề nghị ngành ngân hàng tích cực "bơm" vốn cho nông dân, hãy cho nông dân vay nhiều hơn, nhanh hơn, với thủ tục thuận lợi hơn để có thêm nhiều hộ nông dân được tiếp cận nguồn vốn tín dụng đầu tư sản xuất, kinh doanh. Về phía các hộ nông dân khi vay vốn cần tính toán cụ thể, trên tinh thần có vay, có trả nghiêm túc, giữ chữ tín để cả ngân hàng và hộ nông dân cùng phát triển thịnh vượng.

Về giải quyết việc làm

Xuất phát từ chỗ lao động nông nghiệp trong tỉnh chỉ sử dụng bình quân khoảng 60% thời gian lao động, còn lại là thời gian nông nhàn cho nên trong nông thôn hiện nay lao động dư thừa đang trở thành sức ép. Phần lớn lao động trẻ phải rời nông thôn đi tìm việc làm xa với những công việc không ổn định, thu nhập thấp. Điều này dẫn đến nhiều hệ luỵ không tốt trong đời sống xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển bền vững của nông thôn. Nguyên nhân của tình trạng trên là do phần lớn số lao động đó chưa được đào tạo nghề, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Để giải quyết vấn đề này, đề nghị các cấp, ngành chức năng cần làm tốt hơn nữa công tác đào tạo nghề, có giải pháp từng bước nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn với từng cơ sở đào tạo nghề, phải công bố chuẩn đào tạo; tạo điều kiện cho người dân tiếp cận dễ dàng với các thông tin về thị trường lao động, việc làm từ tỉnh đến xã. Cần giúp người dân nhận thức sâu sắc rằng việc đào tạo nghề chính là "chìa khoá" để tìm kiếm việc làm và nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Mặt khác, cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển, qua đó sẽ có sự chuyển dịch của lao động nông thôn sang làm việc tại các doanh nghiệp.

Về Kiến thức sản xuất và tiêu thụ nông sản

Đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp là yếu tố quyết định để người nông dân sản xuất hàng hoá. Lâu nay nhiều nông dân thường sản xuất tự phát, theo phong trào, gần như không biết bán cho ai, giá bao nhiêu… chỉ biết vụ trước người ta cấy trồng và chăn nuôi, sản phẩm bán có lãi là làm theo. Thực tế cho thấy, khi chỉ có một số hộ sản xuất một loại sản phẩm thì dễ tiêu thụ, nhưng khi thấy hiệu quả, nhiều người cùng làm thì lại lo thừa, không tiêu thụ được. Để từng bước giải quyết vấn đề này, ngành nông nghiệp từ tỉnh đến huyện cần rà soát, bổ sung quy hoạch vùng sản xuất theo hướng xác định thị trường tiêu thụ chính là các thành phố lớn và cho các nhà máy chế biến xuất khẩu, nhất là sản xuất các loại rau quả, thực phẩm an toàn. Để đáp ứng yêu cầu của các thị trường trên, vấn đề mấu chốt là phải có kiến thức sản xuất nhằm bảo đảm tiêu chuẩn, vệ sinh an toàn thực phẩm. Do vậy các ngành chức năng cần tăng cường chuyển giao khoa học, nâng cao kiến thức sản xuất cho nông dân, giúp nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học từ khâu sản xuất, thu hoạch, bảo quản đến chế biến... Các ngành, địa phương cần khuyến khích các doanh nghiệp ký hợp đồng đầu tư vùng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm với HTX hoặc trưởng thôn, tổ nhóm đại diện các hộ dân, đồng thời đề cao trách nhiệm thực hiện cam kết, thực hiện hợp đồng của cả hai phía.

Giải quyết tốt những vấn đề nông dân quan tâm nêu trên là thiết thực cải thiện, nâng cao đời sống nông dân, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.

Trần Anh